Các cấp hành chính địa phương Hành_chính_Việt_Nam_thời_Lý

Lãnh thổ nước Đại Việt thời nhà Lý (1009-1225).

Sau khi thành lập triều Lý, Lý Thái Tổ liền tiến hành sắp xếp lại các đơn vị hành chính địa phương. Phủ Thiên Đức và phủ Thiên Trường được thành lập. Các đạo thời Đinh, Tiền Lê bị thay thế bằng các lộ nếu là ở đồng bằng, là châu, trại nếu là vùng rừng núi hoặc vùng xa kinh đô. Về sau còn lập thêm phủ Thanh Hóa (Thanh Hóa ngày nay), đạo Lâm Tây (vùng Tây Bắc ngày nay).

Đào Duy Anh cho rằng từ Lý Thái Tổ sắp xếp các phủ, châu đến thời Lý Thánh Tông mở rộng đất đai về phía nam (năm 1069) thì toàn bộ 24 đơn vị hành chính của nước Đại Việt bao gồm[1]:

  1. Phủ Đô hộ: là phụ quách của kinh thành Thăng Long, tức một phần thành phố Hà Nội (chưa bao gồm phần mở rộng thuộc Hà Tây cũ)
  2. Phủ Ứng Thiên, tương đương một phần thành phố Hà Nội (chưa bao gồm phần mở rộng thuộc Hà Tây cũ)
  3. Lộ Thiên Trường, tương đương tỉnh Nam Định hiện nay
  4. Lộ Quốc Oai, tương đương lưu vực sông Đáy thuộc tỉnh Hà Tây
  5. Lộ Hải Đông, tương đương miền Quảng Ninh
  6. Lộ Kiến Xương, tương đương một phần tỉnh Thái Bình
  7. Lộ Long Hưng, tương đương một phần tỉnh Thái Bình
  8. Lộ Khoái, tương đương tỉnh Hưng Yên
  9. Lộ Hoàng Giang, tương đương tỉnh Hà Nam
  10. Lộ Bắc Giang, tương đương tỉnh Bắc Giang
  11. Lộ Trường Yên, tức là tỉnh Ninh Bình
  12. Lộ Hồng, tương đương với tỉnh Hải Dương, Hải Phòng
  13. Lộ Thanh Hóa, tương đương khu vực tỉnh Thanh Hóa
  14. Lộ Diễn Châu, tương đương vùng Bắc Nghệ An
  15. Phủ Phú Lương, tương đương tỉnh Thái Nguyên
  16. Phủ Thiên Đức (vốn là châu Cổ Pháp) tương đương tỉnh Bắc Ninh
  17. Phủ Nghệ An tương đương tỉnh Nghệ AnHà Tĩnh
  18. Châu Lạng tương đương miền Lạng Sơn và Cao Bằng
  19. Châu Phong tương đương vùng Phú Thọ, Yên Bái
  20. Châu Chân Đăng tương đương với vùng Hà Giang
  21. Đạo Lâm Tây tương đương với Tuyên Quang
  22. Châu Bố Chính, mở từ năm 1069, tương đương phía bắc tỉnh Quảng Bình
  23. Châu Địa Lý, mở từ năm 1069, sau đổi là Lâm Bình, tương đương phía nam tỉnh Quảng Bình
  24. Châu Ma Linh mở từ năm 1069, sau đổi là Minh Linh, tương đương phía bắc tỉnh Quảng Trị

Đứng đầu bộ máy hành chính của các phủ, lộ là tri phủ, phán phủ, của các châu là tri châu, của các trại, đạo là quan mục. Riêng phủ Đô hộ đứng đầu là sĩ sư[2].

Ngoài những châu lớn tương đương với các lộ, phủ, sử sách còn nhắc đến các châu nhỏ nhưng không đầy đủ[3]:

  • Thuộc Tuyên Quang hiện nay gồm có: châu Vị Long (Chiêm Hóa, Tuyên Quang), Đô Kim (Hàm Yên, Tuyên Quang)
  • Thuộc ven biển Hải Phòng: châu Vĩnh An, châu Tô Mậu
  • Thuộc Lạng Sơn: châu Thất Nguyên (Thất Khê, Lạng Sơn), châu Văn (Văn Uyên, Lạng Sơn), châu Quang Lang, châu Tây Nùng (hay Tây Nông)
  • Thuộc Bắc Kạn: châu Thượng Nguyên
  • Thuộc Yên Bái: châu Định Nguyên
  • Thuộc Hà Giang: châu Bình Nguyên, châu Thường Tân (khu vực Tuyên Quang, Hà Giang),
  • Thuộc Cao Bằng: châu Quảng Nguyên (Quảng Uyên, Cao Bằng), châu Thảng Do, châu Bình, châu Bà
  • Thuộc Bắc Ninh: châu Vũ Ninh (huyện Võ Giàng, Bắc Ninh)
  • Thuộc Quảng Tây, Trung Quốc: châu Lôi Hỏa (phía tây bắc tỉnh Cao Bằng)

Các phủ, lộ được chia thành các huyện. Đứng đầu bộ máy hành của các huyện là huyện lệnh. Cùng cấp với huyện là hương. Tương đương với các huyện nhưng ở kinh đô thì có các phường. Thời Lý có 61 phường.

Các tư liệu lịch sử cũ cho biết thời Lý còn có các đơn vị hành chính gọi là hương mà Trần Thị Vinh (2008) cho rằng cùng cấp với huyện.

Các huyện, hương lại chia thành các giáp. Đứng đầu bộ máy hành chính ở giáp là quản giáp và chủ đô. Các giáp lại chia thành các thôn.